Điều 28 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2010
và được hợp nhất năm 2013) quy định về hành vi xâm phạm quyền tác giả, trong đó
có thể chia thành ba nhóm hành vi xâm phạm: (i) Các hành vi xâm phạm các quyền
nhân thân; (ii) Các hành vi xâm phạm quyền tài sản; (iii) Các hành vi xâm phạm
đến các biện pháp bảo vệ quyền tác giả. Để hướng dẫn các quy định của Luật Sở
hữu trí tuệ về bảo vệ quyền sở hữu, Điều 5 Nghị định số 105/2006/NĐ-CP ngày
22/9/2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu
trí tuệ về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ,
được sửa đổi, bổ sung theo quy định của Nghị định số 119/2010/NĐ-CP ngày
30/12/2010 quy định các căn cứ chung để xác định hành vi xâm phạm quyền sở hữu
trí tuệ nói chung, xâm phạm quyền tác giả nói riêng, bao gồm:
Thứ nhất, đối tượng bị xem xét thuộc phạm vi các đối tượng đang được bảo
hộ quyền tác giả.
Theo khoản 7 Điều 3 Nghị định số 105/2006/NĐ-CP, “đối tượng bị xem xét” là đối
tượng bị nghi ngờ và bị xem xét nhằm đưa ra kết luận đó có phải là đối tượng
xâm phạm hay không. Như vậy, đối tượng bị xem xét của hành vi xâm phạm quyền
tác giả là tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học đang được bảo hộ quyền tác
giả. Quyền tác giả được bảo hộ tự động kể từ khi tác phẩm được sáng tạo và thể
hiện dưới hình thức vật chất nhất định, không phụ thuộc vào việc đã được đăng
ký hay chưa đăng ký[1].
Theo Điều 6 Nghị định số 105/2006/NĐ-CP, việc xác định đối tượng được bảo hộ
được thực hiện bằng cách xem xét các tài liệu, chứng cứ chứng minh căn cứ phát
sinh, xác lập quyền theo Điều 6 Luật Sở hữu trí tuệ. Đối với quyền tác giả
không đăng ký bảo hộ tại cơ quan có thẩm quyền (Cục Bản quyền tác giả), thì
quyền này được xác định trên cơ sở bản gốc tác phẩm và các tài liệu liên quan
(nếu có). Nếu bản gốc tác phẩm và các tài liệu liên quan không còn tồn tại,
quyền tác giả được xem là có thực dựa trên cơ sở các thông tin về tác giả được
thể hiện thông thường trên các bản sao được công bố hợp pháp. Đối với quyền tác
giả đã được đăng ký bảo hộ tại cơ quan có thẩm quyền, thì việc xác định đối
tượng được bảo hộ dựa vào Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả và các tài liệu
kèm theo. Theo Điều 27 Luật Sở hữu trí tuệ, các quyền nhân thân thuộc quyền tác
giả (trừ quyền công bố tác phẩm) được bảo hộ vô thời hạn; Quyền công bố và các
quyền tài sản thuộc quyền tác giả được bảo hộ có thời hạn, nên hành vi chỉ bị
coi là xâm phạm quyền tác giả khi tác phẩm đang trong thời hạn bảo hộ. Nếu tác
phẩm đã kết thúc thời hạn bảo hộ thì thuộc về công chúng, mọi tổ chức, cá nhân
đều có quyền sử dụng tác phẩm nhưng phải tôn trọng các quyền nhân thân như
quyền đặt tên, đứng tên, bảo vệ sự toàn vẹn đối với tác phẩm[2].
Một điểm cần lưu ý thêm là “đối tượng bị xem xét” không phải là các đối tượng
không thuộc phạm vi bảo hộ quyền tác giả theo Điều 15 Luật Sở hữu trí tuệ như:
Tin tức thời sự thuần tuý đưa tin; văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành
chính, văn bản khác thuộc lĩnh vực tư pháp và bản dịch chính thức của văn bản
đó; quy trình, hệ thống, phương pháp hoạt động, khái niệm, nguyên lý, số liệu.
Thứ hai, có yếu tố xâm phạm trong đối tượng bị xem xét.
Khoản 1 Điều 7 Nghị định 105/2006/NĐ- CP (đã được sửa đổi, bổ
sung), yếu tố xâm phạm quyền tác giả có thể thuộc một trong các dạng sau đây:
a) Bản sao tác phẩm được tạo ra một cách trái phép;
b) Tác phẩm phái sinh được tạo ra một cách trái phép;
c) Tác phẩm giả mạo tên, chữ ký của tác giả, mạo danh hoặc chiếm
đoạt quyền tác giả;
d) Phần tác phẩm bị trích đoạn, sao chép, lắp ghép trái phép;
đ) Sản phẩm có gắn thiết bị kỹ thuật bảo vệ quyền tác giả bị vô
hiệu hoá trái phép.
Quy định trên chỉ đề cập tới yếu tố xâm phạm quyền nhân thân của
tác giả là: “Tác phẩm giả mạo tên, chữ ký của tác giả, mạo danh hoặc chiếm đoạt
quyền tác giả”. Đối chiếu với Điều 28 Luật Sở hữu trí tuệ, bên cạnh những hành
vi như “chiếm đoạt quyền tác giả” (khoản 1 Điều 28); Mạo danh tác giả (khoản 2
Điều 28), điều luật còn đề cập tới các hành vi xâm phạm quyền nhân thân khác
như: Công bố tác phẩm mà không được phép của tác giả (khoản 3); Công bố tác phẩm
có đồng tác giả mà không được phép của đồng tác giả đó (khoản 4); Sửa chữa, cắt
xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh
dự và uy tín của tác giả (khoản 5). Thiếu sót của Nghị định 105/2006/NĐ-CP (đã
được sửa đổi, bổ sung) có thể dẫn đến khó khăn trong thực tế khi xác định hành
vi xâm phạm quyền tác giả đối với những hành vi này.
Bên cạnh đó, pháp luật sở hữu trí tuệ cũng chưa phân biệt rõ
hành vi chiếm đoạt quyền tác giả với trường hợp mạo danh tác giả. Theo chúng tôi,
hành vi mạo danh tác giả là là hành vi đưa tên người không phải là tác giả lên
bản sao tác phẩm, làm cho công chúng hiểu nhầm người đó là tác giả thực hiện
một phần hay toàn bộ tác phẩm. Hành vi này thường do những chủ thể không phải
là tác giả thực hiện như lấy toàn bộ hay một phần tác phẩm của người khác rồi
đề tên mình vào vị trí của tác giả. Hành vi mạo danh đơn thuần chỉ xâm phạm
quyền nhân thân của tác giả tại khoản 2 Điều 19 Luật Sở hữu trí tuệ. Ngoài việc
mạo danh đối với toàn bộ nội dung tác phẩm, trường hợp khá phổ biến trên thực
tế là việc trích dẫn một đoạn tác phẩm mà không nêu rõ nguồn gốc trích dẫn,
người thực hiện hành vi xâm phạm này đã tự nhận “đoạn tác phẩm” đó là của mình.
Theo chúng tôi, hành vi này cũng là mạo danh tác giả. Còn hành vi chiếm đoạt
quyền tác giả, do pháp luật không có sự giải thích cụ thể nên có nhiều quan
điểm khác nhau. Trong cuốn “Từ điển thuật ngữ quyền tác giả” do Nhà xuất bản
Thế giới và Cục bản quyền tác giả phối hợp xuất bản, “chiếm đoạt quyền sử dụng
tác phẩm” được hiểu là sao chép tác phẩm mà không có sự đồng ý của chủ thể
quyền[3].
Chúng tôi không nhất trí với quan điểm này khi đánh đồng hành vi “sao chép tác
phẩm” và “chiếm đoạt quyền tác giả”, vì việc sao chép tác phẩm đã được quy định
là một hành vi độc lập. Theo chúng tôi, “chiếm đoạt quyền tác giả” là lấy toàn
bộ nội dung tác phẩm của người khác. Tuy nhiên khác với hành vi mạo danh chỉ
xâm phạm đến quyền nhân thân của tác giả và có thể mạo danh đối với toàn bộ
hoặc một phần tác phẩm, hành vi chiếm đoạt quyền tác giả được hiểu là việc biến
tác phẩm của người khác thành tác phẩm của mình để được hưởng các lợi ích từ
quyền tác giả. Theo cách hiểu này thì hành vi “chiếm đoạt quyền tác giả” là
hành vi khai thác các quyền tác giả đối với tác phẩm mà không được phép.
Sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương
hại đến danh dự và uy tín của tác giả: Đây là hành vi vi phạm diễn ra khá phổ
biến trong các hoạt động sử dụng tác phẩm như: Xuất bản, biểu diễn, sản xuất
bản ghi âm, ghi hình... Theo quy định tại khoản 5 Điều 28 Luật Sở hữu trí tuệ,
hành vi chỉ coi là hành vi xâm phạm nếu việc “sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc
tác phẩm” “gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả”. Theo quy định này
thì việc sửa chữa, cắt xén không gây phương hại đến danh dự, uy tín của tác
giả, thậm chí làm cho tác phẩm hay hơn thì không bị coi là xâm phạm quyền tác
giả. Tuy nhiên, việc sửa chữa, cắt xén có làm phương hại đến danh dự, uy tín
của tác giả không là rất khó xác định và không có tiêu chí để đánh giá. Thực
tế, người cắt xén, sửa chữa tác phẩm có thể cho là việc làm của họ khiến cho
tác phẩm hay hơn, nhưng ngược lại, tác giả lại phản đối và cho rằng việc sửa
chữa đó làm ảnh hưởng xấu đến tác phẩm cũng như danh dự, uy tín của tác giả.
Quy định của Luật Sở hữu trí tuệ cũng không thống nhất với hướng dẫn tại khoản
3 Điều 22 Nghị định số 100/2006/NĐ-CP, theo đó, quyền bảo vệ sự toàn vẹn đối
với tác phẩm là “việc không cho người khác sửa chữa, cắt xén tác phẩm, trừ
trường hợp có thỏa thuận với tác giả”. Theo tinh thần của quy định này, bất cứ
việc sửa chữa, cắt xén tác phẩm nào mà không có sự đồng ý của tác giả thì đều
bị coi là xâm phạm quyền tác giả. Chúng tôi tán thành quan điểm thể hiện trong
khoản 3 Điều 22 Nghị định 100/2006/NĐ-CP vì tác phẩm là “đứa con tinh thần của
tác giả”, là một thể thống nhất thể hiện nội dung, tư tưởng, ý đồ nghệ thuật
của tác giả. Việc sửa chữa, cắt xén tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào có thể
làm ảnh hưởng đến giá trị nội dung cũng như nghệ thuật của tác phẩm, làm sai
lệch, thậm chí bóp méo tư tưởng, chủ đề mà tác giả gửi gắm trong tác phẩm của
họ. Vì vậy, không có chủ thể nào khác ngoài tác giả có quyền thay đổi nội dung
của tác phẩm kể cả trong trường hợp việc thay đổi nhằm làm tăng giá trị nghệ
thuật, giá trị thực tiễn của tác phẩm, trừ trường hợp được tác giả cho phép.
Tuy nhiên, cũng cần lưu ý một số ngoại lệ của quyền này: (i) Trường hợp trích
dẫn hợp lý tác phẩm vì mục đích giảng dạy, nghiên cứu không bị coi là xâm phạm
quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm; (ii) Trường hợp sau khi tác phẩm được
công bố, những người khác làm tác phẩm phái sinh, có những thay đổi, sáng tạo
mới về nội dung, hình thức thể hiện hay truyền đạt so với tác phẩm ban đầu cũng
không bị coi làm xâm phạm quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm. Tuy nhiên,
chúng tôi cho rằng cần phải có sự thống nhất giữa quy định của Luật SHTT và văn
bản hướng dẫn về việc xác định hành vi xâm phạm đến tính toàn vẹn của tác phẩm,
để việc áp dụng được rõ ràng, chính xác, tranh gây ra nhiều tranh chấp về vấn
đề này.
Theo khoản 1 Điều 7 Nghị định số 105/2006/NĐ-CP (đã được sửa
đổi, bổ sung), yếu tố xâm phạm quyền tài sản của tác giả bao gồm các dạng: Bản
sao tác phẩm được tạo ra một cách trái phép; tác phẩm phái sinh được tạo ra một
cách trái phép; phần tác phẩm bị trích đoạn, sao chép, lắp ghép trái phép.
“Sao chép tác phẩm mà không được phép của tác giả, chủ sở hữu quyền tác
giả” là một trong những hành vi xâm phạm quyền tài sản phổ biến nhất. Khoản 10
Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ giải thích về hành vi sao chép “là việc tạo ra một
hoặc nhiều bản sao của tác phẩm hoặc bản ghi âm, ghi hình bằng bất kỳ phương
tiện hay hình thức nào, bao gồm cả việc tạo ra bản sao dưới hình thức điện tử”.
Nếu như trước đây, sao chép tác phẩm thường được hiểu là việc làm các bản sao
dưới các hình thức vật chất hữu hình như văn bản, băng, đĩa... thì quy định này
đã mở rộng phạm vi quyền sao chép đến cả các hình thức điện tử. Quy định này
hoàn toàn phù hợp với khái niệm sao chép trong Điều 9 Công ước Berne “tác giả
được hưởng độc quyền cho phép sao chép tác phẩm dưới bất kỳ phương tiện hay
hình thức nào” cũng như hai Hiệp ước Internet của WIPO. Theo khoản 5 Điều 1
Nghị định 85/2011/NĐ-CP, quyền sao chép thuộc về chủ sở hữu quyền tác giả hoặc
người khác được chủ sở hữu quyền tác giả cho phép thực hiện. Tác giả chỉ có
quyền sao chép tác phẩm khi tác giả đồng thời là chủ sở hữu quyền tác giả hoặc
người được chủ sở hữu quyền tác giả cho phép thực hiện.
Để xác định một bản sao hoặc tác phẩm có phải là yếu tố xâm phạm
quyền tác giả hay không, cần so sánh bản sao đó với bản gốc tác phẩm hoặc tác
phẩm gốc. Bản sao tác phẩm bị coi là yếu tố xâm phạm trong các trường hợp: Bản
sao là bản sao chép một phần hoặc toàn bộ tác phẩm của người khác; Tác phẩm
(phần tác phẩm) là một phần hoặc toàn bộ tác phẩm của người khác; Tác phẩm,
phần tác phẩm có nhân vật, hình tượng, cách thể hiện tính cách nhân vật, hình
tượng, tình tiết của tác phẩm đang được bảo hộ của người khác.
Quyền sao chép là một trong những quyền tài sản quan trọng nhất
của chủ sở hữu quyền tác giả và cũng là quyền thường bị xâm phạm nhiều nhất
trong môi trường truyền thống (tác phẩm in, bản ghi âm, ghi hình) cũng như
trong môi trường Internet. Quyền sao chép theo đúng nghĩa của nó là việc làm
bản sao tác phẩm ở bất kỳ hình thức vật chất nào, không phụ thuộc vào việc hành
vi đó được thực hiện ở đâu, khi nào; những bảo sao sẽ được đưa ra công chúng
hay không. Bên cạnh đó hành vi sao chép không đòi hỏi phải có một số lượng bản
sao nhất định để đáp ứng được nhu cầu hợp lý của công chúng. Việc xác định hành
vi xâm phạm quyền sao chép trong môi trường Internet liên quan đến việc xác
định các bản sao tạm thời có được pháp luật quyền tác giả bảo hộ hay không? Ví
dụ, việc lưu giữ tự động của máy tính khi mở một website có chứa văn bản có gọi
là bản sao không? Việc lưu giữ này chỉ diễn ra trong một thời gian ngắn (chỉ
lúc người sử dụng mở website đó mà không copy về máy mình những thông tin có
trên website). Nếu coi là một “bản sao dưới hình thức điện tử” thì khi đọc
truyện trực tuyến, xem phim trực tuyến hay khi mở bất cứ một văn bản nào trên
Internet cũng phải xin phép tác giả là vô lý, điều này cũng sẽ dẫn đến sự hủy
diệt của Internet. Theo hướng dẫn tại khoản 2 Điều 23 Nghị định số
100/2006/NĐ-CP, “sao chép tác phẩm là quyền của chủ sở hữu quyền tác giả độc
quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện việc tạo ra bản sao của tác
phẩm bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào, bao gồm cả việc lưu trữ thường
xuyên hoặc tạm thời tác phẩm dưới hình thức điện tử”. Theo hướng dẫn này thì
bản sao tạm thời tác phẩm cũng thuộc phạm vi bảo hộ của quyền sao chép. Tuy
nhiên, Nghị định số 85/2011/NĐ-CP sửa đổi một số điều của Nghị định số
100/2006/NĐ-CP đã bỏ quy định về bản sao tạm thời tác phẩm, theo đó, “Quyền sao
chép tác phẩm… việc tạo ra bản sao tác phẩm bằng bất kỳ phương tiện hay hình
thức nào, bao gồm cả việc tạo ra bản sao dưới hình thức điện tử”. Với quy định
mới này, “bản sao tạm thời” không thuộc độc quyền sao chép của chủ sở hữu quyền
tác giả, nên hành vi tạo ra bản sao tạm thời không bị coi là xâm phạm quyền tác
giả. Chỉ khi nào chủ thể copy (ghi chép) dữ liệu điện tử về máy tính của mình
thì mới coi là bản sao điện tử.
Pháp luật Sở hữu trí tuệ chỉ đặt ra một số ngoại lệ đối với
quyền sao chép (Điều 25 Luật Sở hữu trí tuệ) như tự sao chép một bản nhằm mục
đích nghiên cứu, giảng dạy của cá nhân hay sao chép một bản để lưu trữ trong
thư viện (việc sao chép này cũng không áp dụng đối với tác phẩm kiến trúc, tạo
hình, chương trình máy tính). Như vậy, hành vi sao chép ngoài những trường hợp
nêu trên dù thực hiện dưới bất kỳ hình thức nào (có thể là bản in, sao chép lên
băng đĩa, thông qua các phương tiện kỹ thuật số, ghi chép vào dữ liệu máy
tính...), thực hiện ở đâu, các bản sao có được phát hành đến công chúng hay
không... đều có thể bị xem là hành vi xâm phạm quyền tác giả. Tuy nhiên, trên
môi trường Internet, việc sao chép và lưu trữ tác phẩm được tiến hành một cách
dễ dàng, nhanh chóng với số lượng rất lớn các bản sao. Vì vậy, thực tế khó có
thể kiểm soát được số lượng tác phẩm được sao chép gắn với mục đích giảng dạy,
nghiên cứu khoa học cũng như việc lưu trữ bản sao kỹ thuật số của thư viện. Đây
là một thách thức lớn trong việc xác định hành vi xâm phạm quyền sao chép tác
phẩm.
Khoản 7 Điều 28 Luật Sở hữu trí tuệ quy định: “Làm tác phẩm phái
sinh mà không được phép của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm
được dùng để làm tác phẩm phái sinh, trừ trường hợp quy định tại điểm i khoản 1
Điều 25 của Luật Sở hữu trí tuệ” là hành vi xâm phạm quyền tác giả. Theo quy
định của Điều 20 Luật Sở hữu trí tuệ, quyền làm tác phẩm phái sinh thuộc độc
quyền của chủ sở hữu quyền tác giả. Do đó, khi người khác tạo ra tác phẩm phái
sinh trên cơ sở tác phẩm gốc như: Dịch, phóng tác, cải biên, chuyển thể, biên
soạn, chú giải, tuyển chọn... tác phẩm thì phải xin phép (nếu tác phẩm chưa
được công bố), trả tiền nhuận bút, thù lao... cho chủ sở hữu tác phẩm gốc.
Nghị định số 105/2006/NĐ-CP chỉ đề cập đến
hai hành vi xâm phạm quyền tác giả kể trên. Trong khi đó, Điều 28 Luật Sở hữu
trí tuệ còn quy định về các hành vi xâm phạm quyền tài sản của tác giả, bao gồm
các hành vi: Phân phối tác phẩm mà không được phép của tác giả (khoản 3), và
phân phối tác phẩm có đồng tác giả mà không được phép của đồng tác giả đó
(khoản 4); Sử dụng tác phẩm mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả,
không trả tiền nhuận bút, thù lao, quyền lợi vật chất khác (khoản 8); Cho thuê
tác phẩm mà không trả tiền nhuận bút, thù lao và quyền lợi vật chất khác cho
tác giả hoặc chủ sở hữu quyền tác giả (khoản 9); Nhân bản, sản xuất bản sao,
phân phối, trưng bày hoặc truyền đạt tác phẩm đến công chúng qua mạng truyền
thông và các phương tiện kỹ thuật số mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác
giả (khoản 10); Xuất bản tác phẩm mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác
giả (khoản 11); Xuất khẩu, nhập khẩu, phân phối bản sao tác phẩm mà không được
phép của chủ sở hữu quyền tác giả (khoản 16).
Hành vi phân phối tác phẩm được hiểu là
việc thực hiện bằng bất kỳ hình thức, phương tiện kỹ thuật nào mà công chúng có
thể tiếp cận được để bán, cho thuê hoặc các hình thức chuyển nhượng khác bản
gốc hoặc bản sao tác phẩm. Tương tự như quyền sao chép, khái niệm quyền phân
phối cũng được mở rộng để phù hợp với sự phát triển của môi trường kỹ thuật số.
Phân phối tác phẩm có thể thực hiện bằng bất kỳ hình thức hay phương tiện kỹ
thuật nào, ví dụ việc bán bản sao tác phẩm có thể được thực hiện trên
Internet...
Theo khoản 3 Điều 23
Nghị định số 100/2006/NĐ-CP, quyền phân phối tác phẩm thuộc về chủ sở hữu quyền
tác giả hoặc người được chủ sở hữu quyền tác giả cho phép thực hiện. Nếu tác
giả (hoặc các đồng tác giả) đồng thời là chủ sở hữu quyền tác giả thì phải được
sự cho phép của tác giả (hoặc các đồng tác giả) đó. Do đó, muốn phân phối tác
phẩm thì phải được sự cho phép của chủ sở hữu quyền tác giả, bất kể là tác phẩm
đó có đồng tác giả hay không. Như vậy, quy định trên là không phù hợp, cần bỏ
quy định về hành vi phân phối tác phẩm mà không được phép của đồng tác giả đó
tại khoản 4, và sửa lại khoản 3 Điều 28 Luật
Sở hữu trí tuệ như sau: “3… phân phối tác phẩm mà không được phép của chủ sở
hữu quyền tác giả”.
Khoản 3 Điều 28 Luật Sỡ hữu trí tuệ bao gồm hai hành vi: Công bố và phân
phối tác phẩm mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả. Quy định như vậy
chưa thực sự hợp lý, bởi lẽ hai hành vi trên xâm phạm đến các quyền khác nhau
thuộc quyền tác giả, cụ thể là hành vi công bố tác phẩm mà không được phép của
chủ sở hữu quyền tác giả là hành vi xâm phạm quyền công bố tác phẩm hoặc cho
phép người khác công bố tác phẩm - quyền nhân thân của tác giả tại khoản 3 Điều
19 Luật Sở hữu trí tuệ; trong khi đó hành vi phân phối tác phẩm mà không được
phép của chủ sở hữu quyền tác giả là hành vi xâm phạm quyền phân phối tác phẩm
- quyền tài sản của tác giả tại điểm d khoản 1 Điều 20 Luật Sở hữu trí tuệ. Vì vậy, theo chúng tôi, Điều 28 Luật Sở hữu
trí tuệ nên quy định theo hướng tách riêng hai hành vi trên
Với sự thay đổi nhanh chóng trong cách thức thể hiện tác phẩm, trong
thời đại hiện nay, các phương tiện truyền tải tác phẩm cũng ngày càng phong
phú, đa dạng hơn, cho phép việc chuyển tải tác phẩm đến công chúng với phạm vi
không bị hạn chế trong thời gian nhanh chất, chất lượng tốt nhất. Điều 20 Luật
Sở hữu trí tuệ ghi nhận: “Quyền truyền đạt tác phẩm đến công chúng bằng phương
tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ
thuật nào khác” là một trong các độc quyền thuộc quyền tác giả. Chủ sở hữu
quyền tác giả có độc quyền truyền đạt tác phẩm đến công chúng bằng bất kỳ
phương tiện nào mà công chúng có thể tiếp cận được tại địa điểm và thời gian do
chính họ lựa chọn. Đây cũng là quy định thể hiện sự tiếp cận mới của pháp luật
Việt Nam đối với việc bảo hộ quyền tác giả trong kỷ nguyên kỹ thuật số, khi mà
Internet trở thành một phương tiện truyển tải tác phẩm phổ biến với những đặc
thù: Truyền đạt tác phẩm không bị hạn chế về phạm vi lãnh thổ; công chúng có
thể tiếp cận tại bất kỳ đâu, bất kỳ thời điểm nào do họ lựa chọn.
Có thể nhận thấy yếu tố xâm phạm trong nhiều trường hợp như:
Biểu diễn tác phẩm trước công chúng; nhân bản; xuất bản, phân phối, nhập khẩu
bản gốc hoặc bản sao tác phẩm; truyền đạt tác phẩm đến công chúng bằng các
phương tiện kỹ thuật; cho thuê tác phẩm... chưa được pháp luật quy định cụ thể.
Vì vậy, chúng tôi kiến nghị bổ sung yếu tố xâm phạm đối với các hành vi này là:
“Tác phẩm bị sử dụng mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả, không trả
tiền nhuận bút, thù lao, quyền lợi vật chất khác theo quy định của pháp luật,
trừ trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 25 của Luật Sở hữu trí tuệ”.
Liên quan đến hành vi xâm phạm đến các biện pháp bảo vệ quyền tác giả, điểm đ
khoản 1 Điều 7 Nghị định 105/2006/NĐ-CP (đã được sửa đổi, bổ sung) quy định yếu
tố xâm phạm trong đối tượng bị xem xét là: “Sản phẩm có gắn thiết bị kỹ thuật
bảo vệ quyền tác giả bị vô hiệu hóa trái phép”. Hành vi xâm phạm
quyền ở đây là hành vi làm vô hiệu hóa các thiết bị kỹ thuật để bảo vệ quyền
tác giả. Tuy nhiên, khoản 14 Điều 28 Luật Sở hữu trí tuệ khi quy định về các
hành vi xâm phạm còn quy định việc: “Sản xuất, lắp ráp, biến đổi, phân phối,
nhập khẩu, xuất khẩu, bán hoặc cho thuê thiết bị khi biết hoặc có cơ sở để biết
thiết bị đó làm vô hiệu các biện pháp kỹ thuật do chủ sở hữu quyền tác giả thực
hiện để bảo vệ quyền tác giả đối với tác phẩm của mình” cũng là hành vi xâm
phạm. Theo quy định này thì hành vi xâm phạm quyền tác giả không
chỉ là những hành vi tác động trực tiếp để làm vô hiệu hóa các thiết bị bảo vệ
quyền tác giả, mà còn bao gồm những hành vi làm tiền đề cho hành vi xâm phạm kể
trên như sản xuất, lắp ráp, biến đổi, phân phối, nhập khẩu, xuất khẩu, bán hoặc
cho thuê những thiết bị này cũng là hành vi xâm phạm. Quy định này hoàn toàn
phù hợp với quy định tại Điều 18.68 Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương
(TPP) khi TPP yêu cầu các thành viên có các biện pháp chế tài pháp lý hiệu quả
(bao gồm cả các biện pháp xử lý hình sự và yêu cầu bồi thường thiệt hại) đối
với những chủ thể có hành vi: (i) Làm vô hiệu hóa các biện pháp công nghệ mà
chủ thể quyền sử dụng để kiểm soát việc truy cập tác phẩm, cuộc biểu diễn, bản
ghi âm của họ; (ii) Sản xuất, nhập khẩu, phân phối, chào bán, cho thuê, cung
cấp thiết bị, sản phẩm, linh kiện… để vô hiệu hóa các biện pháp bảo vệ của chủ
thể quyền.
Khoản 13 Điều 28 quy định hành vi “cố ý xoá, thay đổi thông tin
quản lý quyền dưới hình thức điện tử có trong tác phẩm” là hành vi xâm phạm
quyền tác giả. Các chủ thể quyền có thể áp dụng biện pháp công nghệ nhằm ngăn
ngừa hành vi xâm phạm quyền tác giả bằng cách đưa các thông tin quản lý quyền
gắn với bản gốc, bản sao tác phẩm; hoặc đưa thông tin quản lý quyền xuất hiện
cùng với việc truyền đạt tác phẩm tới công chúng nhằm xác định tác phẩm, tác
giả của tác phẩm, chủ sở hữu quyền, thông tin về thời hạn, điều kiện sử dụng
tác phẩm và mọi số liệu hoặc mã, ký hiệu thể hiện thông tin đó để bảo vệ quyền
tác giả. Đồng thời các chủ thể quyền có thể áp dụng các biện pháp công nghệ để
bảo vệ các thông tin quản lý quyền, ngăn chặn các hành vi tiếp cận tác phẩm,
khai thác bất hợp pháp quyền sở hữu của mình theo quy định của pháp luật. Các
thông tin quản lý quyền dưới hình thức điện tử có trong tác phẩm có thể là: mã
nguồn của các chương trình, các mã chống sao chép, các mã cho phép số lần sử
dụng hay thời hạn sử dụng đĩa CD, VCD chứa tác phẩm…Điều 18.69 của Hiệp định
TPP quy định hành vi gỡ bỏ hoặc làm thay đổi thông tin quản lý quyền…trên tác
phẩm hành vi xâm phạm quyền tác giả. Như vậy, việc bảo hộ quyền tác giả đã được
mở rộng, không chỉ giới hạn ở hành vi xâm phạm quyền mà thậm chí đối với những hành
vi xâm phạm công nghệ bảo vệ tác phẩm, hoặc xâm phạm vào các thông tin quản lí
quyền.
Thứ ba, người thực hiện hành vi bị xem xét không phải là
chủ thể quyền tác giả và không phải là người được pháp luật hoặc cơ quan có
thẩm quyền cho phép theo quy định tại các Điều 25, 26 Luật Sở hữu trí tuệ
Chủ thể của quyền tác giả có thể là chính tác giả (đồng tác giả), hoặc
chủ sở hữu quyền tác giả hoặc tổ chức, cá nhân được chủ sở hữu quyền tác giả
chuyển giao quyền tác giả. Theo Điều 25 Luật Sở hữu trí tuệ, pháp luật cho phép
tổ chức, cá nhân được sử dụng các tác phẩm đang được bảo hộ trong những trường
hợp giới hạn mà không phải xin phép, trả nhuận bút, thù lao, với những điều
kiện phù hợp như: việc sử dụng không nhằm mục đích thương mại (như: sao chép
tác phẩm để nghiên cứu khoa học, giảng dạy; trích dẫn để bình luận, minh
họa...); không được làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường tác phẩm;
không gây phương hại đến các quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả; phải
thông tin về tên tác giả và nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm. Điều 26 Luật Sở
hữu trí tuệ cho phép tổ chức phát sóng được sử dụng các tác phẩm (trừ tác phẩm
điện ảnh) đã công bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao
cho chủ sở hữu quyền tác giả.
Thứ tư, hành vi bị xem xét xảy ra tại Việt Nam.
Hành vi xem xét bị coi là xảy ra tại Việt Nam khi hành vi đó
được bắt đầu thực hiện tại Việt Nam, kết thúc tại Việt Nam hoặc hành vi bắt đầu
và kết thúc ở nước ngoài, nhưng có một giai đoạn được thực hiện tại Việt Nam.
Hành vi xảy ra trên mạng internet nhưng nhằm vào người tiêu dùng hoặc người
dùng tin tại Việt Nam. Hành vi này có thể hiểu là hành vi xảy ra trên mạng
internet nhắm vào các trang web phổ biến mà phần lớn người tiêu dùng hoặc người
dùng tin tại Việt Nam thường hay truy cập.
Có thể thấy rằng cho đến thời điểm hiện nay, chúng ta đã có những văn bản điều
chỉnh hành vi xâm phạm quyền tác giả. Tuy nhiên, các quy định về hành vi xâm
phạm quyền tác giả vẫn còn thiếu hệ thống, chưa thực sự đầy đủ, đồng bộ. Vẫn
còn những quy định chưa phù hợp, đặc biệt với sự phát triển của internet và bảo
vệ quyền tác giả trong kỷ nguyên kỹ thuật số. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả bảo
hộ quyền tác giả ở Việt Nam thì một trong những yêu cầu quan trọng là xây dựng
hệ thống văn bản pháp luật đầy đủ, đồng bộ, có tính hệ thống cao để người dân
dễ hiểu và dễ thực hiện, các chủ thể có thẩm quyền dễ áp dụng vào thực tế.
ThS. Nguyễn Huy Hoàng
TAND Quận Gò Vấp, TP. Hồ Chí Minh
[1] Xem khoản 1 Điều 6 Luật Sở hữu trí tuệ.
[2] Xem Điều 43 Luật Sở hứu trí tuệ.
[3] Từ điển thuật ngữ quyền tác giả, quyền liên
quan, NXB. Thế giới và Cục bản quyền tác giả, 2010.